Archive for May 2017

Avro Lancaster B.1s of No. 57 Squadron. RAF Scampton in Lincolnshire, UK. February 1943.



Avro Lancaster B.1s of No. 57 Squadron parked up in a dispersal area at dusk before an operation, RAF Scampton in Lincolnshire, UK. February 1943.

On 13 January 1941 the squadron flew its first night bombing mission, the role it would continue to perform for the rest of the war. Lancasters arrived in September 1942, by which time the squadron was part of No.5 Group. The squadron operated the Lancaster as part of Bomber Command's main force from then until the end of the war, taking part in the 25 April 1945 attack on Hitler's mountain retreat at Berchtesgaden, and in the final Lancaster operations of the war, when four aircraft from the squadron dropped mines in Oslo Fjord. (historyofwar.org)

(Photo source - © IWM CH 8785)
Royal Air Force official photographer - Clark N S (Plt Off)

(Colourised by Richard James Molloy from the UK)
www.tig.uk.net

https://www.facebook.com/worldwarincolor/photos/a.393169424146189.1073741828.393166910813107/1095892023873922

----------

Những chiếc Avro Lancaster B.1 thuộc phi đội 57 đậu ở khu vực được phân bố lúc hoàng hôn trước khi thực hiện 1 nhiệm vụ, tại doanh trại không quân Hoàng gia Scampton Lincolnshire, UK. 02/1943.

Vào 13/01/1941, phi đội đã cất cánh trong nhiệm vụ đánh bom đêm đầu tiên, và họ vẫn sẽ giữ vai trò này đến tận cuối cuộc chiến. Những chiếc Lancaster đến vào 09/1942, khoảng thời gian phi đội này thuộc Liên đoàn bay số 5. Phi đội Lancaster là lực lượng chủ lực của Bộ tư lệnh máy bay ném bom từ đấy đến hết chiến tranh, nó đã tham gia cuộc tấn công vào "sào huyệt" trên núi của Hitler, vào 25/04/1945 tại Berchtesgaden và trong phi vụ cuối cùng của cuộc thế chiến, 4 chiếc thuộc phi đội đã rơi ở Oslo Fjord.
Saturday, 6 May 2017
Tag : ,

The Presentation of the Colours of the 51st (Edmonton) Battalion CEF. Canada, 1915.



The Presentation of the Colours of the 51st (Edmonton) Battalion CEF, Canadian Expeditionary Force, Edmonton, Alberta, ca. 1915 (Provincial Archives of Alberta, A2526)
This battalion was raised in Edmonton in July 1915. It sailed in March 1916 with a strength of 1,092, all ranks, under the command of Lt.-Col. R. de L. Harwood.
It provided reinforcements for the Canadian Corps in the field until 13 November 1916, when it was reorganized as a Garrison Duty battalion. On 22 June 1916, its personnel were absorbed by the various regimental depots.

At their farewell banquet in Edmonton on the 6th March 1916, the menu contained an inset entitled:
*Waiting Orders*
"For fourteen months we've worked and drilled
With ardour in our hearts,
Prepared, whene'er our country willed,
To leave for "foreign parts,"
We lighted from our office stools
In patriotic glee;
And changed our pens for grimmer tools
For use in Germany."
( the full 'menu is in the comments of this pic)

(Colourised by Jared Enos from America)
https://www.facebook.com/JenosColor?fref=ts

https://www.facebook.com/ww1incolour/photos/a.450835521726972.1073741828.450822585061599/553841904759666

----------

French Renault FT17 tanks. France, 1918.



French Renault FT17 tanks pass American troops as they move towards the front at Valpries Farm near Juvigny, France, 1918.

The French FT17 was one of the most revolutionary tank designs in History. It was the first tank to ever feature its armament in a 360' degree rotating turret while its layout; crew compartment at the front, engine compartment at the rear and armament in turret became and still is the accepted standard layout for tanks to this day.

In excess of 3000 FT17 tanks were produced, most of which in the year 1918 and saw their battlefield debut on the 31st May of the same year during the Second Battle of Marne.

The tanks were massively successful and following the end of the First World War saw service with the armed forces of many other countries including (but not limited to) Belgium, Poland, Czechoslovakia and Spain as well as other countries as far afield as Brazil, Japan, China and Afghanistan.

The French Army still had over 500 FT17 tanks in active service in 1940 at the time of the German invasion during the opening years of the Second World War. A large number of these tanks were captured by the Germans and despite their battlefield obsolescence still found service in roles such as Airfield Defence and Occupational patrols.

https://www.facebook.com/ww1incolour/photos/a.450835521726972.1073741828.450822585061599/726009154209606

----------

Những chiếc tăng Renault FT17 băng qua binh sĩ Hoa Kỳ tiến ra mặt trận tại Valpries Farm gần Juvigny, Pháp, 1918.

Xe tăng F17 có tính cách mạng bậc nhất về thiết kế trong lịch sử. Đó là xe tăng đầu tiên được trang bị tháp pháo xoay 360 độ, khoang cho kíp lái ở phía trước, khoang động cơ nằm ở phía sau và tháp pháo hiện vẫn được xem như chuẩn mực cho thiết kế xe tăng hiện nay.

Đã có hơn 3000 xe tawgn F17 được sản xuất, đa số vào năm 1918 với trận ra quân vào 31/05 năm này trong suốt cuộc chiến sông Marne lần 2.

Những chiếc tăng này đã đạt những thành tựu to lớn và sau khi kết thúc thế chiến thứ nhất, nó đã được rất nhiều quân đội các quốc gia đưa vào phục vụ như Bỉ, Ba Lan, Tiệp Khắc và Tây Ban Nha, kể cả các quốc gia xa xôi hơn như Brazil, Nhật, Trung Quốc và Afghanistan.

Quân đội Pháp vẫn giữa hơn 500 chiếc F17 vào 1940, tại thời điểm Đức tấn công trong thời kỳ đầu thế chiến thứ hai. Một số lượng lớn xe tăng được người Đức thu giữ và dù không mang ra trong các trận chiến, nó vẫn được dùng cho các nhiệm vụ như bảo vệ sân bay hay tuần tiễu ở các vùng chiếm đóng.

French railroad gun 305-mm. 10/1917.



Canadian Officers examining a large French railroad gun, 1893-1896 model 305-mm gun on an 1889 model center-pintle chassis mount, Oct 1917.

(Photo source - Library and Archives Canada Photo, MIKAN No. 3397386)

(Colorised by Frédéric Duriez from France)
https://www.facebook.com/pages/Histoire-de-Couleurs/695886770496139

https://www.facebook.com/ww1incolour/photos/a.450835521726972.1073741828.450822585061599/807040009439853

----------

Các sĩ quan Canada đang xem xét một đại pháo chạy trên đường ray của Pháp, phiên bản nòng 305mm kiểu 1893-1896 đặt trên khung gầm kiểu 1889, tháng 10/1917.

Me 262 V3. 18/07/1942, Germany.


Messerschmitt 262 V3, PC+UC with the Test Pilot Fritz Wendel, 18 July 1942, Bavaria.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1164933470293710

----------

Messerschmitt 262 V3, ký hiệu PC+UC với phi công bay thử Fritz Wendel, 18/07/1942, Bavaria.

Chi tiết thêm:

https://www.thisdayinaviation.com/tag/me-262-v3/

Vào cuối những năm 30, Đức bắt đầu phát triển một chiếc tiêm kích dùng động cơ phản lực. Đầu 1942, 2 nguyên mẫu đầu tiên của Messerschmitt Me 262 bắt đầu được bay thử. Chúng có 2 động cơ phản lực BMW 003 được gắn trên cánh, nhưng để an toàn hơn, một động cơ piston với cánh quạt được gắn vào phần mũi.

8h40 sáng ngày 18/07/1942 nguyên mẫu thứ 3, ký hiệu PC+UC, đã thực hiện chuyến bay hoàn toàn dùng động cơ phản lực đầu tiên xuất phát từ Leipheim, Bavaria với phi công trưởng (Flugkapitän) lái thử là Fritz Wendel. Nguyễn mẫu này được trang bị 2 động cơ phản lực Junkers Jumo 004.
Friday, 5 May 2017
Tag :

Grossdeutschland Division's soldier.


Soldier from the Grossdeutschland Division, a Wehrmacht division with a Cuff Title.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1008260392627686

----------

Binh sĩ thuộc sư đoàn Đức vĩ đại (Grossdeutschland), một sư đoàn quân đội Đức có dải băng vinh danh đeo ở tay.

Behrend "Boris" Alexander von Mohrenschildt. 1837-1891.


Behrend "Boris" Alexander von Mohrenschildt.
He was born 1837 in Estonia which was part of Russia and he died in 1891.
He fought in the Krim war between 1854 until 1856, the Russo-Turkish war in 1877 and in several smaller wars.
He was "Hetman" (colonel) of the Orenburg Kosaks in 1885.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1174248872695503

----------

Behrend "Boris" Alexander von Mohrenschildt. Ông sinh năm 1837 tại Estonia khi đó thuộc Nga và mất vào 1891.

Ông đã chiến đấu trong chiến tranh Krym (1854-1856), chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ vào 1877 và những cuộc chiến nhỏ khác. Ông lên đến chức "Hetman" (đại tá) của quân đoàn Orenburg Kosaks vào 1885.

Jagdpanzer 38(t) "Hetzer".


Jagdpanzer 38(t) « Hetzer » was a German light tank destroyer of the Second World War based on a modified Czechoslovakian Panzer 38(t) chassis.
The name « Hetzer » was at the time not commonly used for this vehicle. Post-war historians basing themselves on this statement made the name popular in their works, though the vehicle was never named as such in official documents.

The Jagdpanzer 38 equipped the Panzerjägerabteilungen (tank destroyer battalions) of the infantry divisions, giving them some limited mobile anti-armor capability.
The Jagdpanzer 38 was intended to be more cost-effective than the much more ambitious Jagdpanther and Jagdtiger designs of the same period.
The Jagdpanzer 38 first entered service with the Heeres Panzerjäger-Abteilung 731 in July 1944. This unit was sent to Army Group North on the Eastern Front. One report from the Eastern Front described that a company of Hetzers destroyed 20 enemy tanks without any losses.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1217181711735552

----------

Jagdpanzer 38(t) "Hetzer" là một pháo tự hành chống tăng hạng nhẹ của Đức trong ww2 được chế tạo dựa trên khung gầm xe tăng hạng nhẹ 38(t) của Séc. Thời điểm đó, cái tên "Hetzer" hiếm khi được dùng ám chỉ chiếc chiến xa này. CHính các nhà sử học thời hậu chiến đã "bày" ra cái tên này trong các bài báo cáo, khiến nó trở nên thông dụng cho dù chiến xa này chưa từng mang tên đó trong bất kỳ tài liệu chính thức nào.

Jagdpanzer 38 được trang bị trong các tiểu đoàn chống tăng thuộc các sư đoàn bộ binh, giúp tăng cường phần nào khả năng chống lại các phương tiện thiết giáp.


Jagdpanzer 38 được tạo ra với chủ ý giảm thiểu chi phí so với những mẫu thiết kế đầy tham vọng là Jagdpanther và Jagdtiger trong cùng thời kỳ.


Jagdpanzer 38 lần đầu tham chiến trong Tiểu đoàn chống tăng Lục quân 731 vào 07/1944. Đơn vị này được gửi đến cho Tập đoàn quân phương Bắc tại mặt trận phía Đông. Một báo cáo từ mặt trận này cho biết 1 đại đội Hetzer đã tiêu diệt 20 tăng địch mà không gặp bất kỳ tổn thất nào.

August von Mackensen. "The Last Hussar"


August von Mackensen. "The Last Hussar"
(December 6th, 1849 - November 8th, 1945)

He started his service in 1869 as a volunteer with the Prussian 2nd Life Hussars Regiment and after he become Generalfeldmarschall .
He impressed the kaiser who ordered that from 17 June 1893 Mackensen command the 1st Life Hussars Regiment
He received the medal Blue Max "Pour Le Mérite" and the Grand Cross of the Iron Cross.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1236241056496284

----------

August von Mackensen. "Khinh kỵ binh cuối cùng"
(06/12/1849 - 08/11/1945)

Ông khởi đầu quân nghiệp vào 1869 với tư cách chí nguyện quân tại Trung đoàn khinh kỵ Phổ số 2 và sau đó lên đến chức Thống chế.

Đức Hoàng vô cùng ấn tượng với ông, và đã yêu cầu ông chỉ huy Trung đoàn khinh kỵ Phổ số 1 tư 17/06/1893.

Ông đã được trao các huân chương Blue Max "Pour Le Mérite" và Thập tự sắt cấp cao nhất (Grand Cross of the Iron Cross).

Philipp Kleffel review Wehrmacht Spanish soldiers.


"General der Kavallerie" Philipp Kleffel, review Wehrmacht Spanish soldiers from the "División Azul" (250th Spanish division)

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1246468508806872

-----------

"Đại tướng kỵ btuowngsPhillip Kleffel đang duyệt qua những binh sĩ Tây Ban Nha phục vụ trong quân đội Đức đến từ sư đoàn Azul (sư đoàn 250 Tây Ban Nha).

Swedish volunteer in winter war!


Finland, Syväri, One of the 400 Swedish volunteers who held the front line against the Soviets from 1942 to 1944

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1278602418926814

----------

1 binh sĩ trong số 400 chí nguyện quân Thụy Điển tham gia chiến đấu chống lại quân Liên Xô từ 1942 đến 1944, ảnh chụp tại Syväri, Phần Lan.

A finnish soldier and his dog, 1941.


A finnish soldier and his dog, 1941.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/photos/a.790516171068777.1073741828.790508287736232/1279838862136503

----------

Một binh sĩ Phần Lan với "cún cưng", 1941.

British Army Churchill IV (NA 75). 11/09/1944.


British Army Churchill IV (NA 75) tank of 'A' Squadron, 'The North Irish Horse' attached to the 25th Tank Brigade passing through Via XX Settembre, a narrow street in Montefiore Conca in Rimini, Italy. September 11 1944.

(Photo source - © IWM NA 18530)
No. 2 Army Film & Photographic Unit
Dawson (Sgt)

(Colourised by Doug)

https://www.facebook.com/worldwarincolor/photos/a.393169424146189.1073741828.393166910813107/1214296082033515

----------

Xe tăng Churchill 4 (NA 75) thuộc tiểu đội A - Kị binh Bắc Ai-len, lữ đoàn tăng 25, quân đội Hoàng Gia Anh, đang đi qua Via XX Settembre, một con đường nhỏ tại Montefiore Conca, Rimini, Italy. 11/9/1944.

Churchill 4 NA 75 được trang bị pháo 75mm như các xe tăng Sherman, ký hiệu NA viết tắt của North Africa (Bắc Phi), nơi biến thể này được nâng cấp.

Princess Elizabeth, Colonel in Chief of the Grenadier Guards.


Queen Elizabeth II is 91 years old today

This photo shows a young Princess Elizabeth who became Colonel in Chief of the Grenadier Guards in October 1942.
In February 1942, the King appointed his fifteen-year-old daughter Colonel of the Grenadier Guards, the senior Regiment of the Foot Guards. It was the first time in history that a woman had held the position.

The Princess wears an embroidered grenade in her cap and a blue enamelled and diamond brooch, the Regimental cypher, presented to her by the Regiment on her sixteenth birthday.
In early 1945 the Princess was made a Subaltern in the Auxiliary Territorial Service (ATS). By the end of WW2 she had reached the rank of Junior Commander, having completed her course at No. 1 Mechanical training Centre of ATS and passed out as a fully qualified driver.

Photograph by Cecil Beaton

Colourised by Tom Marshall from the UK)

https://www.facebook.com/worldwarincolor/photos/a.393169424146189.1073741828.393166910813107/1198986640231126/

--------

Nữ hoàng Elizabeth 2 hiện 91 tuổi.

Bên trên là bức ảnh Công chúa Elizabeth, người trở thành Colonel in Chief (chức vụ tương đương Đại tá nhưng không tham gia điều binh, do người trong Hoàng gia nắm) trong Trung đoàn Vệ Binh vào tháng 10/1942.

Vào 02/1942, vua Anh chỉ định cô con gái 15 tuổi giữ chức Đại tá của Trung đoàn vệ binh, đơn vị cao cấp của lực lượng vệ binh. Đây là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử nắm chức vụ này.

Thursday, 4 May 2017

Anzac Cove on 25 April 1915.


'Anzac Day'

Wounded troops on the beach at Anzac Cove on 25 April 1915. Men of the AAMC are treating some of the wounded.

An Australian soldier lies wounded in the foreground, as hundreds of other soldiers move among the dead and wounded on the beach at Anzac Cove on the day of the landing. The soldiers wearing Red Cross arm bands are tending to the wounded. Boxes of equipment are stacked among the men and the beach is also littered with discarded personal equipment. This scene is looking along the beach to the north.

"Dysentery and paratyphoid broke out in an environment where water and sanitation were rudimentary at best. Swarms of flies carried infection from refuse, latrines, and rotting corpses to food being eaten in unwashed mess tins. Disease was just as much a threat to the troops as the enemy."

(Photo source - Australian War Memorial - PS1659)
(Colourised by Royston Leonard from the UK)

https://www.facebook.com/ww1incolour/photos/a.450835521726972.1073741828.450822585061599/1120640228079828/

----------

Ngày Anzac

Những thương binh trên bờ biển tại vịnh Anzac, 25/04/1915. Quân y thuộc Quân đoàn quân y Úc đang chăm sóc những người bị thương.

Một thương binh Úc ở tiền cảnh và hàng trăm binh sĩ khác đang di chuyển qua những xác chết và người bị thương trên bãi biển tại vịnh Anzac vào ngày đổ bộ. Những quân y mang băng chữ thập đỏ đang chăm sóc người bị thương. Những hộp trang thiết bị xếp chồng giữa hàng đống người và bãi biển cũng vương vãi nhưng thiết bị bỏ đi. Khung cảnh này được chụp dọc theo bãi biển nhìn về phía Bắc.

Kiết lỵ và sốt rét bùng nổ trong môi trường mà nước và các điều kiện vệ sinh đạt mức tối thiểu. Bệnh bởi hàng đàn ruồi mang đến từ rác rưởi, chất thải và xác chết cho đến thức ăn bẩn đựng trong những hộp thiếc chưa qua vệ sinh. Bệnh tật trở thành một mối đe dọa lớn chả kém kẻ thù bên kia chiến tuyến.

Vịnh Anzac hiện tại (2017)

Wednesday, 3 May 2017
Tag :

Panzer VI Königstigers of 3./schwere Panzer-Abteilung 503. 12/08/1944.


Panzer VI Königstigers of 3./schwere Panzer-Abteilung 503 having just been transported by rail from Mailly-le-Camp and de-trained at Gare de l'Est, Paris can be seen turning from Rue d'Aubervilliers into Boulevard de la Villette on their way to Mantes-la-Jolie to counter the Allied advance toward Paris.
Saturday 12 August 1944.

(Number '331' is in the foreground following '332')
'331' was lost near Avernes - Gadancourt, possibly on August 29
'332' also would have been attacked and knocked out by Allied air attacks and or destroyed by their crews after break downs, around that date.

(Colourised by Royston Leonard from the UK)

https://www.facebook.com/worldwarincolor/photos/a.393169424146189.1073741828.393166910813107/1212813685515088/?type=3

----------

Những chiếc tăng Panzer VI Königstiger (King Tiger) thuộc Tiểu đoàn tăng hạng nặng 503 vừa được vận chuyển bằng đường sắt từ Mailly-le-Camp và hoàn thành huấn luyện tại Gare de l'Est, Paris. Có thể thấy chúng đang chuyển hướng từ đường d'Aubervilliers đến Đại lộ de la Villette trên hành trình hướng Mantes-la-Jolie nhằm phản kích quân Đồng Minh đang thẳng tiến Paris.

Thứ bảy, 12/08/1944.

(Xe tăng số hiệu 331 nằm ở tiền cảnh, đang tiến sau xe số 332)
Xe tăng số hiệu 331 bị hạ gần Avernes - Gadancourt, có lẽ vào 29/08.

Xe tăng số hiệu 332 cũng bị tấn công và loại khỏi vòng chiến bởi không quân Đồng Minh hoặc bị chính tổ lái phá hủy sau khi bị hư hại, vào khoảng thời gian như trên.

Hình ảnh khúc cua trên hiện tại (2017)


Two Gebirgsjägers (mountain infantry) manning an MG-34 machine gun.


Two Gebirgsjägers (mountain infantry) manning an MG-34 machine gun.

An entire corps was formed in Norway by 1941. Its divisions were lightly equipped, with much of the transport provided by mules. These mountain infantry were equipped with fewer automatic weapons than regular infantry, however the MG 34 or MG 42 machine gunners were provided with more ammunition than their regular infantry counterparts.

These units were trained not only as light infantry. Their training differed to most infantry as the Gebirgsjäger lacked the traditional support elements such as tanks, armoured vehicles and artillery etc. Indeed the Gebirgsjäger had to rely on what they could carry – on their backs or on pack animals. Their equipment was specialised too as it needed to be taken apart and carried by pack animals which is quite unlike “normal” infantry equipment.

It was in Norway that their specialist skills were much needed. Then as attention was turned to the West they were then employed in France, then the Balkans and this was again an excellent usage of these crack troops in the mountainous Yugoslavia. Next they were employed in the horrendous Eastern Front – fighting in both specialist and non-specialist rolls - and eventually they were involved in the final eastern front battles.
(text -militaryarchiveresearch)

---------

2 "Gebirgsjäger" (1 loại khinh binh đóng ở các vùng núi có ở 1 số nước Âu-Mỹ) đang tác xạ súng máy MG-34.

Ban đầu được thành lập ở Na Uy, 1941, những sư đoàn này được trang bị vũ khí nhẹ, với phương tiện vận chuyển phổ biến là la. Những khinh binh đóng ở vùng núi này ít được trang bị các vũ khí tự động như những binh đoàn khác, tuy vậy các đội súng máy MG-34 và MG-42 đều được cung cấp đạn dược nhiều hơn hẳn những "đồng nghiệp" của họ.

Những đơn vị này không chỉ được huấn luyện như khinh binh. Chương trình huấn luyện hoàn toàn khác biệt với phần còn lại, do thiếu những thành phần hỗ trợ thường có như thiết giáp, tăng hay pháo... Thật vậy, binh chủng này luôn phải tận dụng những gì họ có thể mang trên lưng hoặc động vật chuyên chở. Những trang bị của họ cũng được "chuyên môn hóa" bởi chúng cần được phân tách và vận chuyển bởi động vật vốn rất khác với các phương tiện vận chuyển thông thường.

Các kỹ năng đặc biệt này là vô cùng cần thiết ở Na Uy. Sau đó, khi tâm điểm chuyển về Tây Âu, họ được đưa về "tác nghiệp" tại Pháp, rồi đến vùng Balkan và tại đây những binh đoàn tiếng tăm này đã có những màn trình diễn tuyệt vời trên những ngọn núi ở Nam Tư. Sau đó họ được đưa ra mặt trận phía Đông đầy khốc liệt - chiến đấu trong cả những chiến dịch đặc biệt hoặc không - sau tất cả, họ đã góp mặt trong những trận chiến cuối cùng ở mặt trận này.

https://www.facebook.com/worldwarincolor/photos/a.393169424146189.1073741828.393166910813107/1212829835513473

de Havilland DH.98 Mosquitos of 105 Squadron at RAF Marham, Norfolk, UK. 11/12/1942.


de Havilland DH.98 Mosquitos of 105 Squadron at RAF Marham, Norfolk, UK. December 11 1942.

None of the aircraft pictured survived the war, either being shot down or withdrawn due to heavy battle damage.

Serial Nr. DZ360 GB-A, Hit by AA and crashed just outside the town of Axel, Netherlands. December 22 1942.
Crew - Fl/Sgt Joseph E. Cloutier RCAF and Sgt. Albert C. Foxley both KIA.

S/Nr. DZ353 GB-E was transferred to 139 Sqn. and 627 Sqn. and became AZ-B. Lost on a mission near Rennes on June 8 1944.
Crew - F/Lt. Harry Steere and F/O Kenneth W. "Windy" Gale RAAF both KIA.

S/Nr. DZ367 GB-J was shot down by AAA on a mission to Berlin on January 30, 1943.
Crew - Sq/Ldr. Donald F. W. Darling and F/O William Wright, both KIA.

S/Nr. DK336 GB-P 139 (Jamaica) Sqn. whilst returning from a raid on Copenhagen January 27, 1943, the left engine hit a barrage balloon cable and trees and crashed in Yaxham, Norfolk.
Crew - Sgt. Richard Clare RAFVR and P/O Edward Doyle RAFVR, both KIA.

S/Nr. DZ378 GB-K was damaged on December 20 1942 after two sorties.

S/Nr. DZ379 GB-H, 139 (Jamaica) Sqn. On August 18 1943, it participated in a diversionary mission for the raid on Peenemunde and then to a night bombing of Berlin. Shot down by a night fighter and crashed at Berge.
Crew - F/O Aubrey S. Cooke RAFVR, (an American pilot) and Sgt David A. H. Dixon RAFVR, both KIA.

(Colorised by Paul Kerestes from Romania)
https://www.facebook.com/jecinci/?fref=nf

---------

Các máy bay de Havilland DH.98 Mosquito, thuộc phi đội 105 tại căn cứ không quân Hoàng Gia Marham, Norfolk, UK, 11/12/1942.

Không một chiếc máy bay nào trong ảnh "sống sót" sau chiến tranh, chúng hoặc bị hạ hoặc bị thải hồi do hư hỏng nặng trong khi tham chiến.

Số hiệu. DZ360 GB-A, bị hạ chơi súng phòng không và rơi bên ngoài thị trấn Axen, Hà Lan, 22/12/1942.
Tổ lái - Fl/Sgt Joseph E. Cloutier RCAF và Sgt. Albert C. Foxley đều hy sinh.

Số hiệu. DZ353 GB-E was transferred to 139 Sqn. and 627 Sqn. and became AZ-B. Mất tích khi làm nhiệm vụ gần Rennes, 08/06/1944.
Tổ lái - F/Lt. Harry Steere và F/O Kenneth W. "Windy" Gale RAAF đều hy sinh.

Số hiệu. DZ367 GB-J bị bắn hạ bởi pháo phòng không trong một nhiệm vụ ở Berlin, 30/01/1943.
Tổ lái - Sq/Ldr. Donald F. W. Darling and F/O William Wright, đều hy sinh.

Số hiệu. DK336 GB-P 139 (Jamaica) Sqn. sau khi quay về từ cuộc đột kích vào Copenhagen vào 27/01/1943, động cơ bên trái vướng phải dây neo khí cầu lẫn cây côi xung quanh và rơi tại Yaxham, Norfolk.
Tổ lái - Sgt. Richard Clare RAFVR và P/O Edward Doyle RAFVR, đều hy sinh.

Số hiệu. DZ378 GB-K bị hư hại vào 20/12/1942 sau 2 cuộc đột kích.

S/Nr. DZ379 GB-H, 139 (Jamaica) Sqn. 18/08/1943, tham gia nhiệm vụ nghi binh cho cuộc đột kích vào Peenemund sau đó là một cuộc oanh tạc ban đêm ở Berlin. Bị hạ bởi 1 tiêm kích trong đêm và rơi ở Berge.
Tổ lái - F/O Aubrey S. Cooke RAFVR, (an American pilot) và Sgt David A. H. Dixon RAFVR, đều hy sinh.


https://www.facebook.com/worldwarincolor/posts/966206806842445:0
Monday, 1 May 2017
Tag :

'Operation Shingle’ - Sherman tanks of the 46th (Liverpool Welsh) Royal Tank Regiment - Italy, 25/01/1944.


'Operation Shingle’

Sherman tanks of the 46th (Liverpool Welsh) Royal Tank Regiment provide fire support for men of the 1st Battalion, Loyal Regiment (North Lancashire) at Anzio, Italy, 25 January 1944.

Operation Shingle’ was finally launched on 22 January 1944, four days after a new US Fifth Army attack on the Garigliano and Rapido rivers near Cassino. British 1st Infantry Division under Major General Ronald Penney, supported by 46th Royal Tank Regiment and commandos of 2nd Special Service Brigade, landed north of Anzio. The US 3rd Infantry Division under Major General Lucian Truscott, supported by a tank battalion, three battalions of Rangers and an Airborne battalion, landed south of the port. Tactical surprise had been achieved and the landings were virtually unopposed. A handful of Luftwaffe aircraft got through the Allied fighter umbrella to strafe the ships, but the Allies lost only 13 men killed and 97 wounded.

Anzio itself had been abandoned by the Germans and its civilian population moved out. Many German units had been deployed further south to counter US Fifth Army’s attack on the Garigliano. By the end of the day 36,000 troops and 3,200 vehicles had been delivered ashore. A US reconnaissance jeep patrol found the way open to Rome, and a bolder commander might well have taken advantage. But Major General John Lucas threw away the initiative, choosing instead to dig in and await the Germans.

(Ian Carter - IWM)

(Photo source -© IWM NA 11412)

Sgt. Menzies - No. 2 Army Film & Photographic Unit

(Colourised by Nikos Hatzitsirou from Greece
https://www.facebook.com/Colorizing-historical-photos-619414048205920

---------


Những chiếc xe tăng Sherman của trung đoàn Thiết giáp Hoàng gia 46 (Liverpool Welsh) đang hỗ trợ hỏa lực cho binh sĩ thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn Trung thành (North Lancashire) tại Anzio, Ý, 25/01/1944.

Chiến dịch "Shingle" được phát động vào 22/01/1944, 4 ngày sau đợt tấn công mới nhất của Tập đoàn quân 5 - Hoa Kỳ, vào các con sông Garigliano và Rapido gần Cassino. Sư đoàn bộ binh 1 - Anh Quốc, dưới quyền thiếu tướng Ronald Penney được hỗ trợ bởi trung đoàn Thiết giáp Hoàng gia 46 và các đơn vị thuộc lữ đoàn đặc nhiệm 2, đã đổ bộ vào phía Bắc Anzio. Sư đoàn bộ binh 3 - Hoa Kỳ, dưới quyền thiếu tướng Lucian Truscott được hỗ trợ bởi một tiểu đoàn thiết giáp, ba tiểu đoàn lính đặc nhiệm và một tiểu đoàn lính dù, đã đổ bộ vào phía Nam của cảng. Chiến thuật bất ngờ có hiệu quả và các cuộc đổ bộ hoàn toàn không gặp trở ngại nào. Một chiếc tiêm kích của không quân Đức đã vô tình xuyên thủng "lưới" tiêm kích dày đặc của Đồng Minh nhằm oanh tạc những chiếc tàu thủy, nhưng phía Đồng Minh chỉ mất 13 người, 97 người bị thương.

THực chất Anzio đã bị người Đức bỏ lại và cư dân đã được di chuyển ra ngoài. Rất nhiều đơn vị quân Đức đã được triển khai cách xa về phía Nam để chống chọi cuộc tấn công vào Garigliano của Tập đoàn quân 5 - Hoa Kỳ. Vào cuối ngày, 36000 binh sĩ và 3200 phương tiện đã được đưa lên bờ. Một xe jeep tuần tra của Hoa Kỳ đã tìm ra một con đường thằng đến Rome, và đáng ra một vị chỉ huy liều lĩnh sẽ có thể lợi dụng được điều này. Nhưng thiếu tướng John Lucas đã bác bỏ sáng kiến này, thay vào đó ông chọn việc đào hào đắp lũy và chờ đợi người Đức.

https://www.facebook.com/worldwarincolor/posts/988896964573429:0

Paul Bette (1908-1942)


Born in march 1908, Paul Bette died from a headshot in 1942. Bette is the soldier in colours in the photo, he was in an Engineer and Road Building Batallion from the Wehrmacht. His NCO says in a letter Paul died from a headshot.
He fought in Sedan, Charleville, Latvia, Lithuania, Leningrad and in many others theatre of war... He has been exhumed and reburied in 1999 in the cemetery of Korpowo, the owner of the photo has done 15 years of research about him. R.I.P.

------

Sinh vào tháng 03/1908, Paul Bette (được tô màu trong ảnh) hy sinh năm 1942. Ông thuộc Tiểu đoàn Công binh quân đội Đức. Hạ sĩ quan của ông cho biết trong thư rằng Paul hy sinh bởi 1 phát đạn xuyên qua đầu.

Ông đã chiến đầu ở Sedan, Charleville, Lative, Lithuania, Leningrad và nhiều chiến trường khác. Thi thể ông được khai quật và cải táng năm 1999 tại nghĩa trang ở Korpowo, chủ nhân bức trang đã dành hẳn 15 năm để tìm hiểu về cuộc đời ông.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/posts/1076088925844832:0

s.Pz.Abt. 502, Tiger N°231, Russia, 06/1943.



s.Pz.Abt. 502, Tiger N°231 on the North Front in Russia, June 1943. This was a great photo in B&W and I hope its better in colors. Enjoy !

------

Xe tăng Tiger số hiệu 231 thuộc tiểu đoàn thiết giáp 502 ở phía Bắc mặt trận Nga, tháng 07/1943.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/posts/1099109146876143:0

Troops and Panzerkampfwagen IVs in winter camouflage on the Eastern Front in 1943




Troops and Panzerkampfwagen IVs in winter camouflage on the Eastern Front in 1943

The Panzer IVs (Ausf late G or H) are wearing Schürzen - spaced armour skirting protecting the hull and turret.

(Photo source - Bundesarchiv 101I-700-0272-13)

Taken by Wolfang Vennemann

(Colourised by Royston Leonard UK)
https://www.facebook.com/pages/Colourized-pictures-of-the-world-wars-and-other-periods-in-time/182158581977012

--------

Binh sĩ và xe tăng "Panzer 4" trong quân phục mùa đông, tại mặt trận phía Đông năm 1943.

Các xe tăng Panzer 4 (phiên bản G hoặc H) được trang bị Schürzen - loại giáp bao quanh thân để tăng cường bảo vệ giáp xe và tháp pháo.

https://www.facebook.com/worldwarincolor/posts/1040112422785216:0

USS Bunker Hill (CV-17) Essex-class aircraft carrier was hit by two Kamikazes within 30 seconds in May 1945



USS Bunker Hill (CV-17) Essex-class aircraft carrier was hit by two Kamikazes within 30 seconds in May 1945

On the morning of 11 May 1945, while supporting the invasion of Okinawa, Bunker Hill was struck and severely damaged by two Japanese kamikaze planes. A Mitsubishi A6M Zero fighter plane piloted by Lieutenant Junior Grade Seizō Yasunori emerged from low cloud cover, dove toward the flight deck and dropped a 550-pound (250 kilograms) bomb that penetrated the flight deck and exited from the side of the ship at gallery deck level before exploding in the ocean. The Zero next crashed onto the carrier's flight deck, destroying parked warplanes full of aviation fuel and ammunition, causing a large fire. The remains of the Zero went over the deck and dropped into the sea. Then, a short 30 seconds later, a second Zero, piloted by Ensign Kiyoshi Ogawa, plunged into its suicide dive. The Zero went through the antiaircraft fire, dropped a 550-pound bomb, and then crashed into the flight deck near the carrier's "island", as kamikazes were trained to aim for the island superstructure. The bomb penetrated the flight deck and exploded in the pilot's ready room. Gasoline fires flamed up and several explosions took place.

Bunker Hill lost a total of 346 sailors and airmen killed, 43 more missing (and never found), and 264 wounded. Among the casualties were three officers and nine enlisted men from Mitscher's staff. The admiral relinquished command by visual signal; he and his remaining staff were transferred by breeches buoy to destroyer English and then to Enterprise, which became the flagship. The bomb carried by the second kamikaze penetrated to the pilots' ready room, and 22 members of VF-84 lost their lives in the attack.
Bunker Hill was heavily damaged but was able to steam at 20 knots to Ulithi, where the Marine pilots of VMF-221, who had been aloft during the kamikaze attack and were diverted to other carriers, rejoined their ship The carrier returned home by way of Pearl Harbor, and was sent to the Bremerton Naval Shipyard for repairs. She was still in the shipyard when the war ended in mid-August 1945.

(Photo source - National Archives and Records Administration)

(Colourised by Royston Leonard UK)
https://www.facebook.com/pages/Colourized-pictures-of-the-world-wars-and-other-periods-in-time/182158581977012

----------

Hàng không mẫu hạm lớp Essex, USS Bunker Hill (CV-17) bị hạ trong vòng 30 giây bởi 2 chiếc máy bay cảm tử Thần Phong vào tháng 5/1945.

Vào sáng này 11/05/1945, trong lúc hỗ trợ cho cuộc đổ bộ vào Okinawa, Bunker Hill đã bị tấn công và thiệt hại nặng nề bởi 2 máy bay cảm tử Thần phong của Nhật. Một chiếc tiêm kích Mitsubishi A6M Zero lái bởi Trung úy hải quân Seizō Yasunori đột ngột xuất kích từ lớp mây thấp bao quanh, lao thẳng về phía chiếc mẫu hạm và cắt một quả bom 550 pound (250kg) xuyên qua sân bay rồi trôi tuột về phía hành lang hông tàu trước khi nổ tung trên biển. Chiếc Zero sau đó rơi ngay trên sân bay, phá hủy nhiều máy bay đang đậu đầy ắp nhiên liệu lẫn đạn dược gây nên một trận cháy lớn. Phần còn lại của chiếc Zero trượt trên mặt sàn và rơi xuống biển. Chỉ sau đó 30 giây ngắn ngủi, chiếc Zero thứ hai lái bởi Thiếu úy hải quân Kiyoshi Ogawa liều lĩnh lao vào. Chiếc Zero lướt qua lưới lửa phòng không, thả xuống một quả bom 550 pound rồi rơi xuống sân bay phía gần tháp chỉ huy, đúng với nhiệm vụ nhắm vào vị trí trọng yếu của các phi công cảm tử này. Trài bom cũng xuyên qua lớp sân bay và phát nổ ở phòng chờ của phi công. Lưa xăng bùng lên và vài vụ nổ đã xảy ra.

346 thủy thủ và phi công trên Bunker Hill hy sinh, 43 mất tích (và không bao giờ được tìm thấy), 246 bị thương. Trong số thương vong có ba sĩ quan và chín quân nhân trong bộ tham mưu của Đô Đốc Mitscher.

https://www.facebook.com/worldwarincolor/photos/a.393169424146189.1073741828.393166910813107/1042355552560903

Princess Victoria Louise of Prussia



Princess Victoria Louise of Prussia in Hussar Prussian uniform.
(13 September 1892 – 11 December 1980)
The only daughter and the last child of German Emperor Wilhelm II and Empress Augusta Victoria.

Ostensibly desiring to pursue an alliance with the UK, in the mid-1930s Adolf Hitler took advantage of their sentiment by asking the couple to arrange a match between their daughter Princess Frederica and the Prince of Wales. The Duke and Duchess of Brunswick refused, believing that the age difference was too great.

In May 1941, Wilhelm fell ill from an intestinal blockage, and Victoria Louise travelled to Doorn to visit him, as did several of her brothers. Wilhelm recovered enough for them to depart, but soon relapsed and Victoria Louise did return in time to be at her father's bedside, along with nephew Louis Ferdinand, and stepmother Hermine when he died on June 4, 1941, of a pulmonary embolism.

After the war, Victoria Louise spent much of her time supporting palace restoration projects, high-society parties, hunting, and the showing of horses. She also spent time helping with philanthropic causes, for instance supporting a holiday estate for low-income children.

----------

Công chúa Phổ, Victoria Louise (13/09/1892 - 11/12/1980) trong trang phục khinh kỵ Phổ. Cô là con gái duy nhất và cũng là con út của Đức Hoàng Wilhem 2 với Hoàng Hậu Augusta Victoria.

Vào giữa những năm 30, Adolf Hitler với mong mỏi theo đuổi 1 liên minh với Vương Quốc Anh đã muốn tác hợp con gái của cô - công chúa Frederica - với hoàng tử xứ Wales. Tuy vậy, nữ công tước của Brunswick và chồng đã từ chối với lý do cách biệt tuổi tác quá lớn.

Vào tháng 5 1941, Wilhem 2 trở bênh bởi chứng tắc nghẽn đường ruột, Victoria Louise đã đến Doorn thăm ông cùng những người anh của cô. Họ rời đi sau khi Wilhem 2 hồi phục khá tốt, nhưng rồi lại sớm tái phát và Victoria Louise đã phải quay lại bên cha mình cùng cháu trai Louis Ferdinand và mẹ kế Hermine cho đến khi ông mất vào 04/06/1941 do bệnh phổi.

Sau chiến tranh, Victoria Louise dành phần lớn thời gian cho các dự án tôn tạo các cung điện, các bữa tiệc của giới thượng lưu, thú vui săn bắn và triển lãm ngựa. Cô cũng bỏ thời gian cho từ thiện, như ủng hộ cho một ngày lễ của con em các gia đình nghèo.

https://www.facebook.com/WorldWarColorisation/posts/1183796115074112:0

HRP-1 - VA. USA - 11/1948



These HRP-1 helicopters are demonstrating landing techniques at Quantico, Va., in November 1948.

---------

Những chiếc trực thăng HRP-1 đang biểu diễn các kỹ thuật hạ cánh. QUantico, Virginia, 11/1948.

https://www.facebook.com/182158581977012/photos/a.182161278643409.1073741827.182158581977012/476889999170534/?type=3&permPage=1

Stuart 3 - Tunisia - 12/1943



"Tiger", an M3A1 (Stuart III) of the 3rd Platoon, Company C, 1st Battalion, 1st Armored Regiment, 1st Armored Division, is seen here disabled in Tunisia in early December 1943. The vehicle still carries the 25 gal. spare fuel tanks on the back. This has the partially welded hull. Note the yellow markings. (Bundesarchiv)

---------

Một chiếc xe tăng Stuart 3 M3A1 mang tên "Tiger" thuộc tiểu đội 3, đại đội C, tiểu đoàn 1, trung đoàn thiết giáp 1, sư đoàn thiết giáp 1 đã được tìm thấy trong tình trạng hỏng hóc ở Tunisia vào đầu tháng 12/143. Phía sau phương tiện vẫn còn nguyên những thùng nhiên liệu dự phòng 25gal.

https://www.facebook.com/182158581977012/photos/a.182161278643409.1073741827.182158581977012/730167003842831/?type=3

Tips Us

Name

Email *

Message *

Popular Post

All Categories

Followers

Search This Blog

Powered by Blogger.

- Copyright © 2013 History -Metrominimalist- Powered by Blogger - Designed by Johanes Djogan -